Ernest Rutherford và Phản ứng hạt nhân đầu tiên vào năm 1919
Phương trình Dirac – phương trình đẹp nhất
Đường đi và đến của âm thanh
Cuộc du hành vào lỗ đen (Phần 2) - Kip S. Thorne
CUỘC DU HÀNH VÀO LỖ ĐEN (Tiếp theo phần 1)
Mặc dù biết là có thể sử dụng những công thức và định lý của hình học cao cấp, nhưng bạn hãy nhớ lại những gì mình đã học được trên Trái Đất rằng: tuy khối lượng và mômen quán tính của một lỗ đen xác định tất cả những thuộc tính của đường chân trời cũng như của không gian xung quanh, nhưng chúng không thể cho biết những thông tin rõ ràng về thế giới bên trong của vật thể kỳ bí này. Thuyết tương đối tổng quát nhấn mạnh rằng, bên trong lỗ đen, gần với kỳ dị, không gian không đồng nhất như hình cầu mà bị xáo trộn một cách mãnh liệt, hoàn toàn giống với đầu mút của màng cao su trong hình 1 nếu hòn đá nặng trịch đó sần sùi đầy răng cưa và nhẩy lên nhảy xuống điên cuồng. Hơn nữa, bản chất hỗn độn bên trong lõi của lỗ đen sẽ không chỉ phụ thuộc khối lượng và mômen động lượng của nó mà còn phụ thuộc vào những chi tiết về vụ co sập của sao mẹ đã sinh ra lỗ đen, cũng như phụ thuộc vào những đặc tính của khí được tạo ra sau này xung quanh nó, những điều mà bạn còn chưa nắm rõ.
"Được rồi," bạn tự nhủ. “Bất kể nó cấu tạo như thế nào, thì cái lõi hỗn độn của nó cũng phải có một chu vi nhỏ hơn rất nhiều so với 1 centimét. Như vậy, minh hầu như sẽ gặp những sai số rất nhỏ nếu mình bỏ qua nó khi tính bán kính của đường chân trời.”
Nhưng một lần nữa, bạn nên nhớ rằng không gian bị xoắn đến cực độ ở gần kỳ dị làm cho vùng hỗn độn có bán kinh lên tới hàng triệu kilômét dù nó chỉ có chu vi bé bằng một phần nhỏ của đơn vị centimét, y như khi hòn đá trong hình 1, đủ nặng, có thể kéo đầu mút biến dạng của màng cao su xuống dưới thật sâu trong khi vẫn để chu vi của miền méo mó hỗn độn này nhỏ một cách đáng kể (nhưng bán kính vẫn rất lớn – H. 1). Những sai số bạn mắc phải trong việc tính bán kinh khi đó sẽ trở nên vô cùng kinh khủng. Như vậy bán kinh của đường chân trời không thể tính một cách đơn giản từ những thông tin nghèo nàn mà bạn đang sở hữu khối lượng lỗ đen và mômen quán tính của nó.
Hình 1. Một hòn đá nặng nằm trên một màng cao su (ví dụ như đó là một tấm vải cao su mà các nghệ sỹ biểu diễn xiếc thường nhào lộn) làm biến dạng nó như hình vẽ. Dạng hình học méo mó của màng cao su hoàn toàn tương tự với sự hỗn độn của không gian hình học xung quanh và bên trong một lỗ đen. Ví dụ, chu vi của vành tròn đen dày trong hình vẽ nhỏ hơn nhiều so với 2 lần bán kính của nó, cũng như chu vi của đường chân trời lỗ đen nhỏ hơn nhiều so với 2π lần bán kính của nó.
Tạm bỏ qua những băn khoăn, suy tưởng đang trăn trở về không gian bên trong lỗ đen, bạn chuẩn bị cuộc hành trình khám phá vùng lân cận của đường chân trời bí ẩn. Không muốn liều lĩnh đánh cược bằng sự sống của con người, bạn ra lệnh cho một tên lửa thám hiểm, một rô bốt cao 10 centimét mang tên Arnold thực hiện nhiệm vụ đầy nguy hiểm này thay cho mình và truyền những kết quả về tàu vũ trụ. Arnold mang theo những chỉ dẫn vô cùng đơn giản: Anh ta phải khởi động những máy móc của mình để bắt kịp chuyển động quỹ đạo cùng con tàu, sau đó tắt hết các động cơ, và mặc cho sức hút hấp dẫn mãnh liệt của lỗ đen kéo mình vào bên trong. Trong khi "rơi tự do” như vậy, Arnold phải phát ra các chùm laser màu xanh cực nhạy trở về tàu, trên các dao động điện từ của chùm laser đó, anh ta phải mã hoá và kèm theo các thông tin về quãng đường đi, trạng thái hoạt động của hệ thống điện tử của mình, y hệt như một đài phát thanh truyền những bản tin hàng ngày trong sóng radio được truyền đến mọi nhà.
Cuộc du hành vào lỗ đen (Phần 1) - Kip S. Thorne
Nội dung dưới đây là một vài trích đoạn trong cuốn “Lỗ đen và sự uốn cong của thời gian" - một cuốn sách phổ biến khoa học nổi tiếng của một trong số các nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng nhất thế giới hiện nay, giáo sư Kip Thorne, người đã từng đánh cược với Stephen Hawking và đã thắng.
Trong tất cả những khái niệm của kho tàng tư duy nhân loại, từ những con nhân sư huyền bí đến bom khinh khí huỷ diệt, có lẽ thứ kỳ lạ và bí ẩn nhất chính là lỗ đen: một cái lỗ với những biên giới xác định mà mọi thứ đều có thể rơi vào và không thứ gì có thể thoát ra được một cái lỗ có lực hấp dẫn mạnh đến nỗi thậm chí ánh sáng cũng bị nó bắt và giam giữ trong nhà tù nhỏ bé của nó, một cái lỗ có khả năng làm cong không gian và xoắn thời gian. Cũng như con nhân sư hay các loại quái vật khác, lỗ đen dường như thích hợp với vị trí nằm trong vương quốc của các câu chuyện khoa học viễn tưởng hay những điều kỳ bí thời cổ đại hơn là trong Vũ trụ thực tế của chúng ta, Tuy nhiên, những định luật vật lý đã được kiểm chứng, đã tiên đoán một cách chắc chắn rằng Lỗ đen tồn tại. Trong thiên hà của chúng ta, có thể có đến hàng triệu lỗ đen, nhưng bóng tối của chúng đã che dấu sự tồn tại đó trước mắt con người. Các nhà thiên văn học đã phải rất nỗ lực và cố gắng để tìm ra thực thể kỳ lạ này.
Lỗ đen Hades
Hãy tưởng tượng bạn là chủ sở hữu đồng thời là người điều hành một tàu không gian lớn, Với nhiều máy vi tính hiện đại, robot và hàng trăm phi hành gia dưới quyền. Bạn được Hội Địa lý thế giới giao nhiệm vụ khám phá những lỗ đen nằm trong không gian giữa các vì sao và chuyển về Trái Đất những kết quả và những mô tả thi nghiệm của bạn. Sau sáu năm lang thang trong vũ trụ, con tàu của bạn đang từ từ tiến vào vùng lân cận của lỗ đen gần Trái Đất nhất, có tên “Hades" nằm cạnh sao Vega.
Trên màn hình video của con tàu, bạn và các cộng sự đắc lực nhận ra những dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của lỗ đen này: Các phân từ khí phân bố một cách rời rạc trong không gian giữa các vì sao, khoảng một phân tử trong một centimet khối, bị hút bởi trường hấp dẫn của lỗ đen (hình 1). Chúng bay về phía lỗ đen từ mọi hướng khác nhau, vô cùng chậm khi ở xa lỗ đen - lúc đó lực hấp dẫn rất nhỏ – và tăng tốc khi lại gần lỗ vì lực hút đã tăng lên mạnh mẽ, thậm chi vận tốc của chúng nhanh gần bằng vận tốc ánh sáng. Nếu bạn không hành động kịp thời, cả con tàu có nguy cơ sẽ bị cuốn theo cùng với những phân tử xấu số.
Nhanh chóng và cẩn thận, trợ lý thân cận nhất của bạn, Kares, điều khiển con tàu thoát khỏi tình trạng nguy cấp và đưa nó vào quỹ đạo chuyển động tròn, sau đó tắt các động cơ. Khi bạn bay theo đường biên của lỗ đen, lực quán tính ly tâm của chuyển động tròn này sẽ giúp con tàu của bạn chống lại lực hấp dẫn của lỗ đen. Con tàu giống như một khẩu súng cao su đồ chơi hồi ban còn bé, buộc trên một đầu sơi dây đang quay tít, bị đẩy ra do lực ly tâm và được giữ lại bởi sức căng của sợi dây, tương tự như lực hấp dẫn của lỗ đen. Trong lúc con tàu đang chuyến động theo quán tính thì bạn và các phi hành gia tiến hành khám phá lỗ đen bí ẩn.
Hình 1
Trước tiên, bạn tiến hành nghiên cứu một cách bị đông: sử dung các kính thiên văn để tìm hiểu sóng điện từ mà các phân tử khí phát xạ khi chúng bay vào lỗ đen. Cách xa lỗ đen, các phân tử này ở trạng thái lạnh, chỉ vài độ Kelvin. Khi đó, chúng dao động rất chậm tạo ra các sóng điện từ với bước sóng dài. Đó chính là sóng vô tuyến (hình 2). Vào gần lỗ đen, nơi lực hấp dẫn kéo các phân tử ngày càng mạnh, chúng va chạm với các phân tử khác và nóng lên tới hàng nghìn đô. Nhiệt lượng toả ra khiến chúng dao dộng ngày càng mạnh và phát ra các sóng điện từ có bước sóng ngăn và bạn nhận ra quang phổ đầy màu sắc: đỏ, da cam, vàng, lục, lam, tím (hình 2). Gần lỗ đen hơn nữa, lúc này trường hấp dẫn đã mạnh hơn rất nhiều và các dòng cuốn vào lỗ đen ngày càng nhanh, va chạm nung nóng các phân tử khí lên đến hàng triệu độ, chúng dao động nhanh đến chóng mặt, phát ra những sóng điện từ có bước sóng cực ngắn: tia X. Khi nhìn thấy các tia X tràn ra xung quanh lỗ đen, gợi cho bạn nhớ tới phát hiện về lỗ đen đầu tiên của các nhà vật lý thiên văn vào năm 1972: Cygnus X-1, cách Trái đất 6,000 năm ánh sáng, trong quá trình họ tìm hiểu về tia X
Hình 2: Phổ sóng điện từ, đi từ sóng vô tuyến có bước sóng rất dài (tần số cực thấp) đến các tia gamma với bước sóng cực ngắn (tần số cao).
Điều chỉnh kính thiên văn ngắm gần vào lỗ đen, bạn thấy những tia gamma từ các nguyên tử bị nung nóng đến nhiệt độ cao. Tiếp đến, hiện ra mờ mờ ngay giữa trung tâm của cảnh tượng chói loà này, một hình cầu lớn, đen hoàn toàn, đó chính là lỗ đen, vết mực dơ giữa nền ánh sàng rực rỡ, tia X và tia gamma từ những nguyên tử đã che dấu cho sự tồn tại của nó. Bạn quan sát những dòng nguyên tử siêu nóng đang cuốn vào lỗ từ mọi phía. Khi đã vào bên trong lỗ đen, chúng nóng hơn bao giờ hết, dao động nhanh hơn bao giờ hết và bức xạ mạnh hơn bao giờ hết, nhưng những bức xạ này cũng không thể thoát khỏi cường độ hấp dẫn dữ dội của lỗ đen. Không gì có thể thoát ra được. Đó chính là nguyên nhân tại sao lỗ đen lại có màu đen, đen như mực.
Stephen Hawking thua cược về lỗ đen vũ trụ
Stephen Hawking, sinh năm 1942, là chuyên gia nghiên cứu về thuyết tương đối rộng và tập trung vào vấn đề kỳ dị của không gian. Cuộc đời bất hạnh với căn bệnh hiểm nghèo đã khiến ông phải gắn chặt với chiếc xe lăn và chỉ giao tiếp được với thế giới bên ngoài nhờ chiếc máy vi tính. Những điều đó đã không ngăn được ông trở thành một trong những nhà vật lý lý thuyết tài năng nhất thế giới.
Từ khi cuốn “Lược sử thời gian” được xuất bản, tên tuổi của Stephen Hawking đã nổi tiếng khắp nơi. Người ta hâm mộ ông tới mức có người xem những lời nói của ông như những lời tiên tri về vật lý học. Và dưới con mắt của đông đảo công chúng “Stephen Hawking” đã trở nên đồng nghĩa với thuật ngữ “Lỗ đen” và “Kẻ thống trị vũ trụ" (tên một bộ phim về ông do hãng BBC thực hiện). Nhưng phải chăng chân lý luôn thuộc về nhà tiên tri” và “kẻ thống trị", Stephen Hawking ?
Ngày 21 tháng 7 năm 2004, Stephen Hawking đã tiết lộ lời giải đáp đang được chờ đợi về nghịch lý lỗ đen tại Hội nghị quốc tế diễn ra ở Dublin (Ireland). Trong báo cáo của mình, ông đã thừa nhận trước con mắt ngỡ ngàng của 800 đại biểu tham dự rằng mình và nhà vật lý lý thuyết Kip Thorne thuộc Đại học Caltech (Mỹ) đã thua trong cuộc cá cược với John Preskill về lỗ đen. Mặc dù vậy, lập luận của Hawking chưa đủ sức thuyết phục nhiều người, kể cả Thorne.
Lỗ đen theo quan niệm cổ điển là những vùng không gian có lực hấp dẫn lớn tới mức không một cái gì, thậm chí cả ánh sáng, có thể thoát khỏi chúng. Bề mặt bao quanh lỗ đen mà không một thứ gì có thể thoát khỏi đó gọi là chân trời sự cố. Tất cả thông tin trong ánh sáng và vật chất rơi vào qua chân trời sự cố đều biến mất mãi mãi bởi lẽ lỗ đen chỉ có thể được miêu tả bởi ba thông số: khối lượng, điện tích và mômen động lượng.
Vào những năm 70, dựa trên những công việc trước đó của Jacob Bekenstein và áp dụng thuyết lượng tử vào việc giải thích lỗ đen, Hawking chỉ ra rằng những vật kỳ bí này cũng có nhiệt độ, điều đó có nghĩa là chúng bức xạ nhiệt hay còn gọi là bị bay hơi. Như vậy, cuối cùng các lỗ đen sẽ phải biến mất. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ những thứ rơi vào lỗ đen cũng biến mất theo. Sự tồn tại và tính chất của lỗ đen được suy ra từ các phương trình Einstein, mà các phương trình này là đúng, tức lỗ đen làm mất thông tin. Mặt khác cơ học lượng tử cũng đúng, dẫn đến việc bảo toàn xác suất của mọi quá trình, có nghĩa là thông tin không thể mất đi được. Đây quả thật là một nghịch lý!
Chúng ta hãy thử tưởng tượng, nếu một quả bom làm nổ tung một thư viện thì có làm mất hết các thông tin chứa trong đó không? Có còn một vết tích gì hay mọi dấu vết đều tan biến. Trên thực tế, các thông tin này không thật sự mất đi vì vẫn nằm trong các nguyên tử, các photon bay tán loạn ra xung quanh sau vụ nổ. Về nguyên tắc, đĩ nhiên không dễ dàng gì và cũng không ai làm như vậy, nhưng ta vẫn có thể thu nhặt lại các nguyên tử và photon đó, đo đạc chúng và gắn kết chúng lại thành cái thư viện ban đầu. Nhưng nếu ta ném thư viện đó vào lỗ đen thì sao???
Mô hình chuẩn (SM - Standard Model) - Buổi bình minh của nền vật lý mới
Từ nhiều năm nay con người vẫn không ngừng tìm hiểu xem thế giới tươi đẹp và muôn hình vạn trạng mà chúng ta đang sống rốt cuộc lại được cấu tạo từ cái gì. Rõ ràng đó không phải là các yếu tố đất, không khí, nước và lửa như người Hy Lạp Cổ đại đã nêu ra, cũng không phải là ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ như người Trung Hoa xưa kia đã quan niệm. Ngày nay khoa học vật lý đã cho một lời giải đáp hết sức đơn giản vấn đề nêu trên thông qua một lý thuyết gọn và đẹp nhất từ trước đến nay, có tên gọi là Mô hình chuẩn (SM - Standard Model). Lý thuyết này mô tả tính chất của các thành phần nhỏ nhất của vật chất cũng như mọi tương tác giữa chúng, dẫn đến thế giới tự nhiên muôn hình vạn trạng mà chúng ta đang sống.

Hình mô tả 6 quark, 6 lepton và tác động giữa các hạt theo mô hình chuẩn
Theo Mô hình chuẩn, các thành phần cơ bản cấu tạo nên vật chất thông thường là electron (e-), hạt quark "up" (u) và hạt quark "down" (d). Một hệ ba hạt quark tạo nên proton (uud) và nơtron (udd), hai loại này cùng với e- tạo nên hạt nhân nguyên tử. Đi kèm với e- còn có hạt nơtrino (ν), xuất hiện trong các quá trình rã của một số hạt nhân nặng. Các hạt nói trên tạo nên thế hệ I của các hạt vật chất. Ngoài ra còn có hai thế hệ khác nữa, thế hệ II và thế hệ III, giống thế hệ I về mọi mặt, trừ việc các hạt có khối lượng lớn hơn. Hai thế hệ này dùng để làm gì, cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa trả lời được. Các hạt vật chất như những “viên gạch” cấu tạo nên toà lâu đài thế giới tự nhiên. Để gắn những viên gạch lại với nhau thì cần phải có “xi măng", tức là các hạt bozon truyền tương tác phát huy tác dụng trong phạm vi hạt cơ bản:
- Tương tác điện từ giữa các hạt có mang điện tích. Hạt truyền là photon (γ).
- Tương tác yếu thể hiện qua các quá trình phân rã các hạt, với hạt truyền tương tác yếu là các bozon W+,W¯ và Zº.
Hai loại tương tác trên liên quan đến việc hình thành các nguyên tố hoá học.
Và cuối cùng là tương tác mạnh, gắn kết các quark thành proton, nơtron và gắn kết các proton, nơtron thành hạt nhân nguyên tử. Hạt truyền tương tác mạnh là gluon.
Một trong những điểm đặc sắc nhất của Mô hình chuẩn là dạng cả ba loại tương tác (cấu trúc cụ thể của các phương trình toán học mô tả chúng) đều được quy định bởi cùng một nguyên lý hết sức tổng quát, chung cho cả ba loại. Ngoài những hạt vật chất (quark, lepton) và các bozon truyền tương tác nói trên, ta còn phải kể đến một hạt đặc biệt là bozon Higgs. Hạt Higgs có "nhiệm vụ" sinh khối lượng cho các hạt thông qua dạng tương tác đặc thù của mình.
Để đầy đủ ta cũng cần kể thêm loại tương tác thứ tư là tương tác hấp dẫn (giữa mọi hạt có khối lượng), nhưng tương tác này là quá nhỏ trong phạm vi hạt cơ bản nên lâu nay vẫn bị bỏ qua.
Mô hình chuẩn được xây dựng vào những năm 70 và kiếm nghiệm thực nghiệm vào những năm 80 của thế kỷ trước. Nổi bật nhất là mô hình chuẩn đã dự đoán sự tồn tại của các bozon truyền tương tác yếu W+,W¯ và Z°, cũng như các gluon truyền tương tác mạnh và hai hạt trong số các hạt quark nặng là quark -c và quark -t. Nói riêng máy gia tốc LEP (Large Electron Positron) hoạt động ở CERN gần Geneva (Thuy Sĩ) trong khoảng thời gian từ 1989 đến 2000 đã khảo sát hiện tượng sinh và huỷ cả 20 triệu hạt bozon Z° với các thuộc tính đúng như dự đoán. Đối với các hạt khác cũng tượng tự.
Một kiểm nghiệm quan trọng thứ hai là đối với các góc trộn điện – yếu, một tham số có vai trò không thể thiếu được trong việc mô tả các tương tác điện từ và tương tác yếu. Tham số này được các thí nghiệm khác nhau cùng xác định là có giá trị như nhau với sai số một phần trăm (!), khẳng định tính đúng đắn của lý thuyết. Thật vậy, nếu như mô hình chuẩn là không đúng thì góc trộn này sẽ phải khác nhau đối với những quá trình điện - yếu khác nhau.
Tuy nhiên, như đã từng xảy ra đối với các lý thuyết khác trong lịch sử khoa học, các thí nghiệm gần đây tiến hành trên các máy gia tốc với năng lượng ngày càng cao đã cho nhiều kết quả có vẻ ra khỏi phạm vi Mô hình chuẩn. Đó là chưa kể nhiều vấn đề sâu sắc của vũ trụ học lại tìm được lời giải đáp trong vật lý hạt, tức việc tìm hiểu cái lớn nhất và cái nhỏ nhất được tiến hành đồng thời với nhau. Và điều này Mô hình chuẩn không thể làm nổi.
Richard Feynman - Đi tìm các định luật mới (Phần 2)
Có thể dẫn ra thêm một thí dụ nữa rõ ràng và quan trọng hơn. Một ý tưởng mang lại nhiều kết quả, thúc đẩy mạnh mẽ nhất sự tiến bộ trong sinh vật học, đó là giả thiết cho rằng tất cả những gì sinh vật làm được thì cái đó cũng là do các nguyên tử làm, trong giới sinh vật tất cả đều là kết quả của những quá trình vật lý và hoá học nào đó. Dĩ nhiên có thể nói rằng "Khi anh chuyển sang lĩnh vực của giới sinh học thì tất cả đều là có thể". Nhưng đứng trên quan điểm đó thì anh không bao giờ hiểu được các định luật của giới sinh vật. Thường thì rất khó tin được rằng những cái râu uốn khúc của con cá mực chẳng qua chỉ là một trò chơi của các nguyên tử tuân theo các định luật vật lý đã biết. Nhưng nếu nghiên cứu các chuyển động đó bằng cách dùng các giả thiết tương tự thì thấy rằng chúng ta có thể dự đoán một cách khá chính xác về đặc tính của nó. Và chính vì thế mà chúng ta đạt được những tiến bộ lớn.
Trong việc dự đoán không có cái gì là phản khoa học, dù rằng nhiều người không nghiên cứu khoa học lại cứ nghĩ như thế. Vài năm trước đây tôi phải nói chuyện với một người sính đĩa bay. Vì tôi là nhà khoa học nên tôi phải biết rất nhiều về đĩa bay ! Tôi giải thích cho anh ta rằng tôi không cho là đĩa bay có thật. Điều đó làm phật lòng người nói chuyện với tôi. Anh ta hỏi một cách tức giận: "Sao lại không có đĩa bay ? Anh có thể chứng minh được điều đó không ? "Không, tôi không chứng minh được điều đó, tôi chỉ biết là khả năng có đĩa bay là rất ít". Anh ta tiếp tục tấn công: "Nhưng lý luận như vậy thì hoàn toàn không đạt, nếu anh không chứng minh được diều đó không thể có thì làm sao anh có thể tự cho phép mình nói rằng điều ấy ít có khả năng xảy ra?". Nhưng đó chính là phương pháp lý luận khoa học nhất. Khoa học nói cái gì có xác suất lớn hơn, cái gì có xác suất nhỏ hơn, chứ không phải bao giờ cũng chứng minh được cái gì nhất định phải có, cái gì không thể có. Nếu muốn nói một cách chính xác hơn thì tôi phải nói: "Lẽ nào anh không thấy, trên cơ sở những hiểu biết cuả mình về thế giới xung quanh chúng ta, tôi cho rằng các tin tức về đĩa bay là kết quả những điều suy nghĩ phi lý quen thuộc của con người trên Trái đất hơn là kết quả của những nỗ lực hợp lý của những sinh vật biết tư duy mà ta chưa biết ở trên các hành tinh khác". Giả thiết đầu tiên có vẻ hợp lý hơn nhiều, và tất cả chỉ là thế. Đó là một giả thiết tốt. Và chúng ta luôn luôn cố gắng nghĩ ra những cách giải quyết có vẻ đúng đắn nhất mà không quên rằng nếu bất chợt không dùng được thì chúng ta phải nghiên cứu những khả năng khác.
Nhưng làm thế nào mà dự đoán được cái gì cần phải giữ và cái gì có thể hi sinh ? Chúng ta có biết bao nhiêu là nguyên lý đẹp và biết bao nhiêu là sự kiện đã được biết và mặc dù thế chúng ta vẫn không có những điều phù hợp hoàn toàn với nhau. Lúc thì chúng ta nhận được những giá trị vô cùng lớn, lúc thì cách giải thích của chúng ta là không phù hợp, có một cái gì đó đang còn thiếu. Đôi khi điều đó có nghĩa là ta phải từ bỏ một ý tưởng nào đó. Và ít ra là trong quá khứ, mỗi lần muốn giải quyết một khó khăn tương tự như thế thì chúng ta đều phải hi sinh một quan niệm nào đó có gốc rễ sâu xa. Toàn bộ vấn đề dẫn đến việc để lại cái gì và bỏ đi cái gì. Nếu bỏ đi ngay tất cả thì chúng ta sẽ đi quá xa và trong thực tế chúng ta chẳng còn lại cái gì để làm việc nữa. Cuối cùng thì định luật bảo toàn năng lượng có vẻ là đúng, nó thuận tiện, và tôi không có ý muốn từ bỏ nó. Muốn dự đoán được cái gì cần giữ lại, cái gì cần phải bỏ đi thì cần phải có không ít tài nghệ. Nói cho đúng tôi hoàn toàn thừa nhận rằng ở đây chỉ là chuyện may mắn, nhưng mọi chuyện xảy ra đúng như là cần phải có nhiều tài nghệ mới làm được điều ấy.
Một vấn đề khác được đặt ra trước mắt chúng ta, vấn đề này có liên quan đến sự tồn tại của các đối xứng yếu. Sự tồn tại của các các đối xứng đại loại như điều khẳng định rằng nơtron và proton là hoàn toàn đồng nhất chỉ trừ có tính chất điện của chúng, hay như điều khẳng định rằng nguyên lý về sự phản xạ gương là đúng ở mọi nơi, chỉ trừ đối với phản ứng thuộc một loại, tất cả những điều đó là đáng tiếc. Hình như là tất cả mọi cái đều đối xứng nhưng thực ra lại không đối xứng đến cùng. Về vấn đề ấy bây giờ có hai quan điểm khác nhau. Một quan điểm cho rằng thực ra thì tất cả là đơn giản, thực ra thì tất cả là đối xứng và mọi cái xảy ra có phức tạp một chút có phá vỡ một chút sự đối xứng lý tưởng. Một trường phái khác chỉ có một người theo, người đó là tôi, thì không đồng ý như vậy và tin rằng tất cả là rất phức tạp và sự đơn giản chỉ đạt được sau nhiều điều phức tạp. Những người Hi Lạp xưa kia cho rằng các hành tinh chuyển động theo những quỹ đạo tròn. Thực ra quỹ đạo đó có dạng elip. Chúng không đối xứng một cách hoàn hảo nhưng khác đường tròn rất ít. Nảy ra một vấn đề: tại sao các quỹ đạo lại chỉ đối xứng một cách gần đúng ? Tại sao chúng lại khác vòng tròn ít đến như vậy ? Vì có hiệu ứng thuỷ triều lâu dài và rất phức tạp chăng? Đó là một lý thuyết rất phức tạp. Rất có thể ở sâu trong lòng thì thiên nhiên là hoàn toàn không đối xứng nhưng trong những đan chéo ranh ma trong thực tế thì nó bắt đầu có vẻ gần như là đối xứng và elip bắt đầu giống với đường tròn. Đây là một khả năng khác đối với các bạn. Nhưng không ai biết được câu trả lời chắc chắn, tất cả các điều đó chỉ là phỏng đoán.
Richard Feynman - Đi tìm các định luật mới (Phần 1)
Nói chung thì việc tìm tòi một định luật mới được tiến hành như sau. Trước tiên người ta dự đoán về định luật đó. Tiếp theo thì tính toán những hệ quả của điều dự đoán và tìm hiểu cho rõ những điều suy ra từ định luật đó nếu như nó là đúng. Sau đó so sánh những kết quả tính toán với những điều quan sát được trong thiên nhiên, với kết quả của thực nghiệm và với các kinh nghiệm của chúng ta, và xem xét kết quả của việc so sánh như thế nào. Nếu những tính toán cho kết quả không phù hợp với các số liệu thực nghiệm thì định luật không đúng. Chính mầm mống của khoa học là ở điều xác nhận đơn giản đó. Còn tác giả của điều dự đoán đó là ai, tên gì, thông minh đến mức nào là những điều không quan trọng - nếu lý thuyết không phù hợp với thực nghiệm thì có nghĩa là lý thuyết sai. Đó là tất cả.
Dĩ nhiên để khẳng định dứt khoát một lý thuyết nào đó không đúng còn cần phải kiểm tra thêm, nhưng không nhiều lắm. Bởi lẽ, dù rằng người thí nghiệm là ai, bao giờ cũng có khả năng các kết quả thí nghiệm không được thông báo đúng, hoặc trong thực nghiệm có sự kiện nào đó bị bỏ qua, có một vết bấn hoặc một cái gì đó, hoặc người tính toán các hiệu ứng phạm sai lầm trong quá trình phân tích, mặc dù đó là giả thiết của chính tác giả. Tất cả những điều lưu ý đó đều hoàn toàn tự nhiên và vì vậy khi tôi nói: “Vì rằng kết quả tính toán không phù hợp với thực nghiệm nên định luật đưa ra không đúng" tức là tôi cho rằng thí nghiệm và tính toán đã được tiến hành một cách đúng đắn và sau khi đã phân tích một cách toàn diện, chúng ta đảm bảo rằng các hiện tượng quan sát được là kết quả suy ra một cách lôgic từ giả thuyết mà ta thừa nhận và giả thuyết đó quả thực là không phù hợp với thực nghiệm đã được hiệu chính một cách cực kỳ cấn thận.
Ở bạn có thể hình thành một quan niệm không hoàn toàn đúng về khoa học. Các bạn có thể nghĩ rằng hình như chúng tôi luôn luôn dự đoán, rồi kiểm tra các dự đoán bằng thực nghiệm, khiến cho thực nghiệm chỉ đóng vai trò phụ. Nhưng thực ra các nhà thực nghiệm là những người hoàn toàn tự lập. Họ thích làm thí nghiệm ngay trước khi có một người nào đó suy nghĩ ra một điều gì và họ rất hay làm việc trong những lĩnh vực mà các nhà lý thuyết còn chưa có một dự đoán nào. Thí dụ chúng ta có thể biết một mớ các định luật, nhưng chúng ta không biết ở năng lượng rất cao thì các định luật đó có còn đúng hay không, vì rằng giả thuyết về tính đúng đắn của chúng chẳng qua mới chỉ là một giả thuyết tốt. Các nhà thực nghiệm cố gắng làm các thí nghiệm ở năng lượng cao, nhưng thỉnh thoảng họ vấp phải những khó khăn - điều mà chúng ta coi là đúng hoá ra lại không còn đúng nữa. Như vậy, thực nghiệm có thể dẫn tới những kết quả bất ngờ, và điều đó bắt buộc chúng ta phải đưa ra những dự đoán mới. Một thí dụ về kết quả hực nghiệm không ngờ tới là sự phát minh ra µ-mêzôn và nơtrinô-µ, trước khi tìm ra hai hạt này chì không có ai nêu ra giả thiết về sự tồn tại của chúng và ngay đến bây giờ cũng không ai biết làm thế nào mà tiên đoán được sự tồn tại của chúng.
Dĩ nhiên là các bạn hiểu rằng phương pháp như thế chỉ cho phép lật đổ một lý thuyết bất kì. Nếu chúng ta chỉ có một lý thuyết nào đó, một giả thuyết chân chính nào đó, nhờ có nó ta có thể liên đoán bằng các phương pháp thông thường những kết quả của thực nghiệm, thì nói chung như vậy là đủ để chấm dứt đối với lý thuyết đó, dù nó tốt đến đâu. Chúng ta luôn có khả năng lật đổ một lý thuyết nhưng hãy chú ý rằng chúng ta không bao giờ có thể chứng minh lý thuyết đó là đúng. Giả thử rằng anh đưa ra một lý thuyết có hiệu quả, tính toán được các hệ quả của nó và chứng tỏ rằng tất cả các kết quả đó được khẳng định bằng thực nghiệm. Phải chăng như vậy là lý thuyết của anh đúng? Không, điều đó chỉ có nghĩa là anh chưa bác bỏ được lý thuyết đó mà thôi. Sau này anh có thể tính toán được một loạt kết quả rộng rãi hơn, tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm sâu sắc hơn và chứng minh lý thuyết của anh là không đúng. Tại sao các định luật như định luật về chuyển động của hành tinh của Newton lại sống được lâu đến vậy? Newton dự đoán định luật vạn vật hấp dẫn, từ đó suy ra nhiều hệ quả rất khác nhau đối với Hệ Mặt trời, nhưng khi so sánh chúng với các kết quả quan sát sau đó vài thế kỉ người ta mới thấy được những sai lệch rất nhỏ của chuyển động của Thủy tinh so với dự đoán. Trong suốt những năm đó lý thuyết của Newton chưa bị bác bỏ và tạm thời người ta coi nó là đúng. Nhưng sự đúng đắn của nó không thể chứng minh được vì rằng rất có thể ngày mai thí nghiệm sẽ chứng tỏ điều mà hôm nay anh tin là đúng lại không còn đúng nữa. Điều đáng ngạc nhiên là chúng ta lại có thể nghĩ ra những lý thuyết có thể đứng vững qua các thử thách của thực nghiệm trong một thời gian dài đến như vậy.
Richard Feynman - Đặc tính của các định luật vật lý
Nói một cách chặt chẽ thì những điều tôi định trình bày trong bài giảng này không thể gọi là đặc tính của các định luật vật lý. Khi bàn luận về đặc tính các định luật vật lý thì ít nhất chúng ta cũng có thể giả thiết là chúng ta nói về chính giới tự nhiên. Nhưng bây giờ tôi muốn nói về mối liên hệ của chúng ta với giới tự nhiên nhiều hơn là nói về giới tự nhiên. Tôi muốn kể với các bạn về những điều hôm nay chúng ta coi là đã biết, về những điều mà chúng ta còn phải dự đoán và về cách phỏng đoán các định luật vật lý. Có một bạn nào đó đã đề nghị với tôi là tốt nhất thì tôi giải thích dần dần từng ít một về việc phỏng đoán các định luật, rồi cuối cùng thì tôi khám phá cho các bạn một định luật mới, tôi không biết là tôi có làm được điều đó hay không.
Trước hết tôi muốn kể với các bạn về tình trạng hiện nay của vật lý học. Các bạn có thế nghĩ bằng tất cả những điều đó tôi đã nói rồi, vì rằng trong những bài giảng trước tôi đã trình bày cho các bạn tất cả những định luật cơ bản đã biết. Nhưng tất cả các định luật phải là định luật đối với một cái gì đó: định luật bảo toàn năng lượng nói về năng lượng của một cái gì đó, những Tịnh luật của cơ học lượng tử - đó là những định luật cơ học lượng tử của một vật nào đó - và tất ả những định luật đó gộp chung lại cũng chưa nói được cho chúng ta giới tự nhiên là như thế ào, mà ở đây chúng ta đang nói về giới tự nhiên. Vì thế tôi muốn kể với các bạn một ít về vật hất mà chuyển động của nó tuân theo tất cả các định uật đó. Trước hết chúng ta không lạ gì ất cả các vật chất đều đồng nhất. Ta đã biết rằng vật chất tạo thành các ngôi sao, cũng giống như vật chất tạo thành quả đất. Đặc trưng của ánh sáng phát ra bởi các sao cho ta những tài liệu giống như dấu vân tay để khẳng định rằng những nguyên tử trên các sao cũng cùng thuộc loại như trên Trái đất. Giới sinh vật và vô sinh cũng được cấu thành từ những nguyên tử cùng loại như nhau. Con ếch cũng được cấu tạo bởi cùng một loại vật chất như hòn đá, chỉ khác là để cấu tạo thành con ếch thì vật chất được sử dụng không giống như trong hòn đá. Tất cả những diều đó làm cho vấn đề của chúng ta đơn giản đi. Chúng ta có các nguyên tử, ngoài ra không có cái gì khác nữa, các nguyên tử thì cùng loại và ở khắp nơi đều như nhau. Các nguyên tử rõ ràng có cấu trúc như nhau. Trong nguyên tử có hạt nhân và có electron bao quanh hạt nhân. Có thể lập ra một bảng các hạt mà (theo như chúng ta nghĩ) từ đó tạo hành vũ trụ và chúng ta cho rằng mình đã biết về các hạt đó.
Trong bảng trên trước hết có electron là hạt tạo thành lớp vỏ bên ngoài của nguyên tử. Sau đó là hạt nhân, nhưng hạt nhân lại gồm nhiều hạt thuộc hai loại khác nhau gọi là nơtrôn và proton. Và đây các bạn còn thấy thêm hai hạt nữa. Nếu nhìn lên các sao thì các bạn thấy những nguyên tử, chúng phát ra ánh sáng, mà chính ánh sáng lại được tạo từ các hạt gọi là photon. Ngay từ bài giảng đầu tôi đã nói về lực hấp dẫn và nếu lý thuyết lượng tử là đúng thì trường hấp dẫn phải là một loại sóng nào đó và sóng này cũng có tính chất hạt (như sóng ánh sáng). Các hạt đó gọi là graviton. Còn nếu các bạn không tin vào sự tồn tại của hạt ấy thì cứ gọi nó một cách đơn giản là sự hấp dẫn. Trên kia tôi đã nói đến sự phân rã bêta, trong đó hạt nơtron có thể phân rã thành hạt proton, electron và nơtrinô. Ngoài các hạt nói trên thì còn có những phản hạt tương ứng. Điều tương ứng đó đã làm tăng số hạt của chúng ta biết lên hai lần.
PAUL DIRAC - Phản hạt (phản electron hay positron) và bài toán 3 người câu cá
Paul Dirac là nhà vật lí lý thuyết nổi tiếng người Anh, giải thưởng Nobel về vật lí năm mới 31 tuổi. Ông cũng là một trong số những người sáng lập môn cơ học lượng tử, một lí thuyết cùng với thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng của Einstein tạo nên ba trụ cột của lâu đài vật lí hiện đại. Trong số những thành tựu vĩ đại của ông, có lẽ ấn tượng nhất là tiên đoán sự tồn tại của các phản hạt, mà cụ thể là phản electron hay positron. Trước hết, chúng ta hãy nói qua về con đường dẫn Dirac tới tiên đoán này.
Hồi đó Dirac đã lập được phương trình mô tả hành trạng của electron, trong đó có tính đến các hiệu ứng của thuyết tương đối. Phương trình này đã giải thích được một cách tuyệt vời một loạt các sự kiện thực nghiệm, nhưng ông phát hiện thấy có một điều hơi "lạ", đó là một phần các nghiệm của phương trình đó lại ứng với các giá trị năng lượng âm. Phải làm gì với các nghiệm này đây? Vứt bỏ chúng hay cố gắng làm sáng tỏ ý nghĩa vật lí còn ẩn giấu trong đó? Đối với Dirac câu trả lời đã là rõ ràng. Chúng tôi xin trích ra đây lời phát biểu của ông trong một bài giảng thực ra là để kỉ niệm Einstein cùng với thuyết tương đối, nhưng cũng rất thích hợp cho chính Dirac: "Bất kì ai hiểu sự hài hoà sâu xa liên hệ những hiện tượng tự nhiên và những nguyên lí toán học tổng quát đều phải cảm thấy rằng nếu một lí thuyết đẹp đẽ và tao nhã như lí thuyết của Einstein thì về căn bản nó nhất thiết phải là đúng đắn". Và quả thật ông đã đưa ra một giả thuyết độc đáo và táo bạo cho rằng các nghiệm tưởng như không có ý nghĩa vật lí trong phương trình của ông thực ra là những nghiệm mô tả một hạt sơ cấp mà hồi đó còn chưa ai biết. Hạt này hầu như giống hệt electron nhưng điện tích của nó có dấu ngược lại (tức là bằng +e). Đó chính là tiên đoán hạt positron mà ta nói ở trên. Và chỉ trong năm tiếp sau (1932) hạt này đã được phát hiện thấy trong tia vũ trụ.
Tốc độ lan truyền của lực hấp dẫn - Hai sai lầm của Newton và một lần nữa Einstein lại đúng
Hai nhà khoa học Mỹ, Kopeikin và Ed Fomalont tại Đại học Missouri ở Columbia, lần đầu tiên đã đo được tốc độ lan truyền của lực hấp dẫn, khớp với dự đoán thiên tài của Albert Einstein trong Thuyết tương đối rộng. Thành tựu này ủng hộ cho "Lý thuyết của Tất cả (TOE - Theory of Everything), một lý thuyết trung tâm của vật lý hiện đại nhằm thống nhất toàn bộ các lực trong tự nhiên, tức là thống nhất toàn bộ thế giới vật chất về cùng một bản chất.
Hai sai lầm của Newton
Lực hấp dẫn đã được khám phá từ thế kỉ 17 bởi isaac Newton, một trong những nhà toán học và vật lý vĩ đại nhất của mọi thời đại. Newton thiên tài không những dự đoán được sự tồn tại của lực hấp dẫn mà còn tính được chính xác lực tác dụng giữa hai vật thể có khối lượng, phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn và dùng định luật này để giải thích chuyển động của các thiên thể. Tuy nhiên Newton đã phạm hai sai lầm: Một, ông coi không gian giữa các thiên thể là trống rỗng, lực hấp dẫn có khả năng truyền qua không gian trống rỗng đó để tác dụng lên nhau. Hai, lực hấp dẫn tác dụng tức thời từ vật này lên vật kia, không cần thời gian để đi qua không gian. Nói cách khác, tốc độ lan truyền của lực hấp dẫn là vô hạn.
Sai lầm thứ nhất đã bị Michael Faraday ở thế kỉ 19 bác bỏ. Theo Faraday không thể có không gian trống rỗng và nhất thiết lực phải truyền qua một môi trường trung gian. Môi trường này không nhất thiết được cấu tạo bởi vật chất nhìn thấy, mà có thể bằng một loại vật chất không nhìn thấy được gọi là trường. Lý thuyết về các trường ra đời từ đó. Nhưng sai lầm thứ hai thì phải đợi mãi đến đầu thế kỷ 20, năm 1916, khi Einstein công bố Thuyết tương đối rộng (TTĐR) mới bị bác bỏ. Trong thuyết tương đối này, Einstein nêu lên giả thiết lực hấp dẫn có tốc độ giới hạn, thậm chí ông cho rằng nó bằng tốc độ ánh sáng. Giả thiết này là một trong những cơ sở nền móng của TTĐR. Nếu giả thuyết này sụp đổ thì lý thuyết của Einstein cũng sụp đổ theo. Năm 1919, thí nghiệm của Authur Eddington đo độ lệch của tia sáng phát ra từ một ngôi sao khi nó đi ngang qua gần Mặt Trời, xác nhận hoàn toàn tiên đoán của Einstein về tính cong của không gian, một trong những hệ quả nổi tiếng của TTĐR. Từ đó lý thuyết của Einstein hoàn toàn có sức thuyết phục. Trong gần 100 năm qua, khoa học đã làm lại thí nghiệm của Eddington nhiều lần với những công cụ ngày càng tinh vi hơn, thu được những kết quả ngày càng gần với tính toán lý thuyết của Einstein hơn. Mặt khác, với TTĐR các nhà vũ trụ học đã giải thích và tính toán được hàng loạt hiện tượng thiên văn và vũ trụ một cách chính xác. Do đó đến nay TTĐR đã trở thành một trong những trụ cột của khoa học, thậm chí của cả triết học là nhận thức của loài người nói chung. Không còn ai nghi ngờ nó nữa, người ta chỉ sử dụng nó như một công cụ sắc bén để khám phá những hiện tượng mới, nguyên lí mới của tự nhiên.
Giả thiết về tính giới han của tốc độ lực hấp dẫn có đúng không?
Câu hỏi này từ lâu đã thách thức các nhà khoa học, và là một trong những thách thức vĩ đại nhất. Và phải đợi gần một thế kỉ sau Einstein, đầu năm 2003 mới có câu trả lời: “Một lần nữa Einstein lại đúng”, Kathy Sawyer, ký giả khoa học của nhật báo The Washington Post, phải thot lên như vậy khi đưa tin bình luận về sự kiện vang dội này: Kết quả đo đạc của Fomalont và Kopeikin cho thấy tốc độ lan truyền của lực hấp dẫn bằng 1,06 lần tốc độ ánh sáng, tức bằng 299337km/s trong chân không với sai số 20%.
Nhưng làm thế nào mà hai nhà khoa học đó đã làm được điều kì diệu vậy? Câu trả lời là: Họ đã học kỹ thí nghiệm của Authur Eddington. Vậy đến đây xin độc giả hãy trở lại với Eddington.
Năm 1916, Einstein tiên đoán lực hấp dẫn sẽ làm uốn cong không gian xung quanh nó, và do đó ánh sáng đi qua một vùng ở gần thiên thể có khối lượng lớn cũng sẽ bị cong dưới tác dụng của lực hấp dẫn do thiên thể ấy gây ra. Eddington là người vô cùng sắc sảo khi ông đề nghị kiểm tra tiên đoán của Einstein nhân dip một hiện tượng nhật thực hi hữu xảy ra vào năm 1919, trong đó Trái Đất, Mặt Trời và một ngôi sao biết rõ danh tính nằm gần như thẳng hàng, do vậy ánh sáng từ ngôi sao đến Trái Đất sẽ phải đi ngang qua gần Mặt Trời. Nếu Einstein đúng thì vị trí ngôi sao trên bản đồ sao lúc xảy ra nhật thực sẽ phai lệch đi một chút so với vị trí vốn có, do ánh sáng của nó bị lệch khi đi gần Mặt Trời. Kết qua như trên đã nói, thí nghiệm đã xác nhân tiên đoán của Einstein.
Đến lượt Fomalont và Kopeikin, với chương trình nghiên cứu đã được chuẩn bị từ nhiều năm trước, hai ông đã “chộp” được một hiện tượng cũng vô cùng hi hữu xảy ra một lần trong một thập kỉ: Trái đất, Mộc tinh (một hành tinh trong hệ Mặt Trời) và một quasar cách xa Trái Đất vài tỉ năm ánh sáng, sắp xếp gần như thẳng hàng vào ngày 8 tháng 9 năm 2002. Sóng vô tuyến phát đi từ quasar đó tới Trái Đất khi đi ngang qua gần Mộc tinh sẽ bị lệch dưới tác dụng của lực hấp dẫn của Mộc tinh. Lực hấp dẫn càng lớn thì độ lệch càng lớn. Từ độ lệch thu nhận được từ rất nhiều đài quan sát khác nhau, các nhà khoa học có thể tính được tốc độ truyền của lực hấp dẫn.
Dòng chảy bí ẩn của thời gian và Nghịch lý sâu sắc với Vật lý hiện đại
Shakespeare cũng đã viết về "con quay thời gian", Andrew Marvell dã nói đến “Cỗ xe có cánh của thời gian". Những hình ảnh đó rất gợi cảm song chúng lại dẫn đến một nghịch lý sâu sắc mang tính tàn phá mọi điều cố hữu.
Trong vật lý không có một điều gì tương ứng với sự chảy của thời gian. Các nhà vật lý cho rằng thời gian không chảy, thời gian chỉ tồn tại. Một số nhà triết học lý luận rằng bản thân khái niệm chảy của thời gian là vô nghĩa và khái niệm dòng thời gian chỉ là khái niệm do nhận thức nhầm lẫn. Vì sao mà một điều cơ bản như thế trong nhận thức của chúng ta về thế giới khách quan lại có thể trở thành một ngộ nhận? Hay là ở đây có tính chất trọng yếu của thời gian mà khoa học chưa nhận dạng được?
Thời gian là gì? Cái nhìn từ Vật lý hiện đại
Trong cuộc sống và khoa học ứng dụng, ta chỉ mới sử dụng khái niệm “thời khoảng", tức khoảng thời gian được đo theo đơn vị thời gian quy ước giữa các sự kiện hay biến cố, mà không quan tâm hay đúng hơn chưa cần đi sâu vào bản chất của thời gian.
Nói một cách tổng quát nhất, thời gian và không gian là những tham số chứng minh sự tồn tại của thế giới vật chất và cũng là hình thức cơ bản của kinh nghiệm con người. Con người dễ dàng cảm nhận sự tồn tại của không gian, bởi vì với 3 toạ độ (không cần nhiều hơn) chúng ta có thể xác định bất cứ vị trí nào trong không gian. Đối với thời gian, chúng ta chỉ có quan niệm như sự kéo dài thuần tuý, sự diễn ra theo trình tự không thể ngược của các biến cố từ quá khứ đến tương lại thông qua hiện tại. Nhưng làm sao có thể phân định rạch ròi các mốc quá khứ, hiện tại, tương lại. Chỉ một cái chớp mắt, hiện tại đã trở thành quá khứ, còn tương lai phải chăng là sự chờ đợi trong hiện tại. Mấy năm gần đây một số nhà vật lý còn đề cập một cách nghiêm túc đến vấn đề trôi ngược của thời gian: thời gian có thể trôi ngược từ tương lai về hiện tại, từ hiện tại về quá khứ.
Các định luật bảo toàn vĩ đại - P2. Định luật bảo toàn năng lượng
Tiếp theo phần 1 hãy cùng đến tiếp với phần 2 về Định luật bảo toàn năng lượng được phân tích ở bên dưới nhé.
Người ta dần dần đã đưa ra những định luật bảo toàn khác, bản chất cũng thế, cũng những qui tắc đếm ấy. Chẳng hạn, đã từng có một thời các nhà khoa học cho rằng, trong bất kì phản ứng nào số nguyên tử natri luôn giữ không đổi. Nhưng các nguyên tử natri đâu phải là bất biến. Có thể chuyển hoá các nguyên tử của một số nguyên tố này thành các nguyên tử của một nguyên tố khác, làm cho nguyên tố ban đầu biến mất hoàn toàn. Lại cũng có một thời có một định luật khác mà mọi người đều cho là đúng, khối lượng toàn phần của một vật là không đổi. Điều đó phụ thuộc cách anh định nghĩa khối lượng như thế nào và anh có chú ý tới năng lượng hay không. Định luật bảo toàn khối lượng chứa đựng trong định luật bảo toàn lượng mà chúng ta sắp phân tích. Trong tất cả các định luật bảo toàn, định luật này khó và trừu tượng hơn cả, song cũng có ích hơn tất cả. Hiểu nó khó hơn những định luật đã trình bày, bởi vì trong trường hợp điện tích và những trường hợp khác đã xét, cơ chế rất dễ hiểu: nhiều hay ít, chúng đều dẫn tới sự bảo toàn những vật cụ thể nào đó. Nhiều hay ít là vì có những vật thể này biến hoá thành những vật thể khác, song mặc dù thế, chung qui vẫn chỉ là sự đếm giản đơn mà thôi.
Các định luật bảo toàn vĩ đại - P3. Định luật bảo toàn mômen động lượng
Tiếp theo phần 2 và cũng là phần kết cho câu chuyện về các định luật bảo toàn. Mọi thứ được trình bày để một người bình thường cũng có thể dễ dàng chiêm nghiệm về các định luật của Vật lý. hãy cùng xem tiếp nhé.
Trong chừng mực chúng ta biết, năng lượng được bảo toàn một cách chính xác. Năng lượng không có đơn vị nguyên tố. Còn điều này nữa: nó có phải là nguồn của trường không? Có. Einstein đã cho rằng năng lượng sinh ra hấp dẫn. Năng lượng tương đương với khối lượng và vì vậy ý nghĩ của Newton cho rằng khối lượng sinh ra hấp dẫn, đã trở thành một khắng định: năng lượng sinh ra hấp dẫn.
Còn có những đại lượng bảo toàn khác giống như năng lượng ở chỗ chúng cũng là những số ! Một trong những đại lượng đó là động lượng (xung lượng). Nếu lấy tất cả các khối lượng trong một hệ, đem nhân với vận tốc tương ứng và cộng lại tất cả, thì tổng sẽ là động lượng của hệ. Và động lượng toàn phần này của hệ được bảo toàn.
Các định luật bảo toàn vĩ đại - P1. Định luật bảo toàn điện tích
Các định luật bảo toàn
Khi nghiên cứu vật lý, chúng ta nhận thấy rằng có nhiều định luật phức tạp và rất chính xác như định luật về hấp dẫn, về điện, về từ, về tương tác hạt nhân,.... Song trong các định luật khác nhau, muôn màu muôn vẻ ấy, có chứa dựng những nguyên lý nào đó rất chung.
Thí dụ, đó là các định luật bảo toàn, là một số tính đối xứng, là dạng tổng quát của các nguyên lý cơ lượng tử, và là một điều này nữa: tất cả các định luật đều biểu diễn dưới dạng toán học, điều mà có người rất lấy làm thú vị và có người chẳng ưa thích chút nào. Trong bài giảng này, tôi muốn nói về các định luật bảo toàn.
Nhà vật lý hay dùng những danh từ thông thường với một ý nghĩa khác thường. Đối với họ, nói tới một định luật bảo toàn có nghĩa là có một số nào đó luôn luôn không đổi, dù anh đếm nó lúc này hay lúc khác – sau một thời gian mà trong tự nhiên đã có nhiều thay đổi. Chẳng hạn như định luật bảo toàn năng lượng. Có một đại lượng mà anh có thể tính được theo nhiều qui tắc xác định, nhưng kết quả bao giờ cũng như nhau.